Thứ Sáu, 14 tháng 11, 2014

Bệnh thoát vị đĩa đệm là gì

Bệnh thoát vị đĩa đệm là gì

Hiện nay, số người bị mắc các bệnh về xương khớp ngày càng nhiều. Một số bệnh thường gặp như thoát vị đĩa đệm, thoái hóa cột sống, thoái hóa khớp…gây nên đau nhức khiến người bệnh rất khó chịu và gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống. Trong bài viết này chúng tôi muốn đề cập cho bạn đọc biết về bệnh thoát vị đĩa đệm là gì để giúp người bệnh có cái nhìn tổng quát hơn về bệnh này.
Bệnh thoát vị đĩa đệm là gì
Bệnh thoát vị đĩa đệm là gì
Bệnh thoát vị đĩa đệm là gì?
Những đốt sống tạọ thành cột sống ở sau lưng được chêm bỡi những đĩa nhỏ gọi làxuongsong đĩa đệm. Những đĩa này tròn và dẹt có vỏ ngoài dai để bao bọc một chất nhầy bén, trong được gọi là nhân. Bình thường những đĩa này chịu một áp lực do cột sống đè lên.
Khi những đĩa này khoẻ mạnh, chúng có chức năng như một cái giảm sốc cho cột sống và làm cho cột sống mềm dẻo dễ uốn. Khi những đĩa đệm bị chấn thương, nó sẽmòn, rách hoặc bị bệnh, chúng có thể phồng lên hoặc vỡ ra. Đó gọi là thoát vị đĩa đệm.
Thoát vị đĩa đệmxảy ra bất kỳ phần nào của cột sống. Hơn 90% thoát vị đĩa đệm xảy raở cột sống thắt lưng. Những phần còn lại xảy ra ở cổ và rất it ở cột sống ngực.
Có 3 hội chứng đuôi ngựa tùy theo tầng thoát vị đĩa đệm, có các hội chứng khác nhau:
Hội chứng đuôi ngựa trên: liệt ngoại vi toàn bộ ở hai chân, rối loạn cảm giác hai chân từ nếp bẹn trở xuống, rối loạn cơ thắt kiểu ngoại vi. Thể này ít gặp vì thoát vị đĩa đệm ở đoạn cao (L1 – L2 và L2 – L3) ít có điều kiện xảy ra.
Hội chứng đuôi ngựa dưới: do thoát vị đĩa đệm L5 – S1, có rối loạn cơ thắt kiểu ngoại vi, rối loạn cảm giác vùng đáy chậu, không có liệt hoặc chỉ liệt một số động tác của bàn chân (rễ L5, S1, S2).
Hội chứng đuôi ngựa giữa: thường gặp do thoát vị đĩa đệm L3 – L4 và L4 – L5. Liệt gấp cẳng chân, liệt các động tác của bàn chân và ngón chân, mất cảm giác toàn bộ ngón chân; mất cảm giác toàn bộ cẳng chân, bàn chân, mặt sau đùi và mông; rối loạn cơ thắt kiểu ngoại vi.
Chẩn đoán xác định viêm đa rễ thần kinh dựa trên cơ sở lâm sàng và các kỹ thuật cận lâm sàng như chụp Xquang, chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ…
Để xác định bệnh cụ thể, bác sỹ phải khám lâm sàng và thực hiện các kỹ thuật cận lâm sàng như đo điện cơ, chụp cắt lớp (CT), cộng hưởng từ (MRI).
Việc điều trị bệnh này sẽ mất một khoảng thời gian dài do vậy người bệnh cần kiên trì mới đạt được hiệu quả chữa bệnh. Hãy đi thăm khám kịp thời ngay khi phát hiện các triệu chứng của bệnh để việc chữa bệnh được dễ dàng hơn.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét